Quyết định Giám đốc thẩm

Quyết định giám đốc thẩm số 36/2003/HĐTP-DS ngày 24/12/2003 về vụ án "Tranh chấp quyền sở hữu nhà "

Cập nhật: 10-09-2011 08:56:44

QUYẾT ĐỊNH SỐ 36/2003/HĐTP-DS NGÀY 24-12-2003 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU NHÀ

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

.....................

Tại phiên toà ngày 24-12-2003, xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự về tranh chấp quyền sở hữu nhà giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Trần Thuỷ Dinh, sinh năm 1971, trú tại số 42 Tân Khai, phường 4, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh;

Bị đơn: Bà Tăng Tô Muối, sinh năm 1944, trú tại số 40 Tân Khai, phường 4, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

l- Chị Lưu Hồng Hạnh, sinh năm 1976 (vợ anh Dinh);

2- Bà Lữ Ngọc Anh, sinh năm 1951 (mẹ anh Dinh);

3- Ông Trần An Thạch, sinh năm 1947 (cha anh Dinh).

Bà Anh và ông Thạch uỷ quyền cho anh Dinh.

NHẬN THẤY:

Anh Dinh khai: Năm 1992, mẹ của anh (bà Lữ Ngọc Anh) cho anh tiền mua căn nhà số 42 Tân Khai, phường 4, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh. Cùng năm 1992, bà Muối được mua hoá giá căn nhà số 40 Tân Khai (cùng dãy phố) đang ở thuê của Nhà nước. Do bà Muối không có tiền mua nhà, nhưng là chị kết nghĩa với mẹ anh và sống độc thân, nên mẹ anh đã giao cho bà Muối 15 lượng vàng để bà Muối mua hoá giá và đứng tên giùm, mẹ anh thoả thuận cho bà Muối tiếp tục ở suốt đời.

Năm 1993, mẹ anh cho anh căn nhà số 40 Tân Khai và cho 1,3 tỷ đồng để xây dựng lại cả hai căn nhà (số 40 và số 42 Tân Khai). Sau khi xây xong, vợ chồng anh Dinh cùng bà Muối sử dụng chung. Nay thấy bà Muối có biểu hiện chiếm đoạt nhà số 40 Tân Khai, anh Dinh yêu cầu Toà án xác định nhà số 40 Tân Khai thuộc sở hữu của anh và anh sẽ cho bà Muối 40 lượng vàng để bà tìm chỗ ở khác.

Tại phiên toà sơ thẩm, anh Dinh rút yêu cầu tranh chấp quyền sở hữu nhà số 40 Tân Khai và chỉ yêu cầu bà Muối hoàn trả tiền xây dựng là 453.607.000 đồng.

Bà Muối cho rằng: Năm 1992, bà mua hoá giá nhà số 40 Tân Khai với giá 36.100.000 đồng. Năm 1993, bà hùn vốn với bà Anh (mẹ anh Dinh) để xây cất lại cùng nhà số 42 Tân Khai với dự định sẽ mở cơ sở làm ăn chung. Bà uỷ quyền cho bà Anh lo việc xây cất và đã đưa cho bà Anh 28.000USD và 20 lượng vàng. Nay bà yêu cầu ngăn đôi nhà để phần ai người đó sở hữu riêng, bà yêu cầu phía anh Dinh chịu 1/2 chi phí xây tường ngăn.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 64/DSST ngày 14-09-1998, Toà án nhân dân quận 11 đã quyết định:

1- Ghi nhận việc anh Trần Thuỷ Dinh rút lại yêu cầu tranh chấp sở hữu căn nhà số 40 Tân Khai phường 4, quận 11;

- Chấp nhận yêu cầu của anh Trần Thuỷ Dinh về việc đòi tiền xây cất căn nhà số 40 Tân Khai, phường 4, quận 11;

2- Công nhận sở hữu căn nhà số 40 Tân Khai, phường 4, quận 11 là của bà Tăng Tô Muối.

- Công nhận toàn bộ phần xây cất căn nhà số 40 số 42 Tân Khai, phường 4, quận 11 là của anh Trần Thuỷ Dinh và chị Lưu Hồng Hạnh.

- Bà Tăng Tô Muối được quyền xây tường ngăn đôi căn nhà số 40 số 42 Tân Khai, phường 4, quận 11. Phần anh Dinh sở hữu sử dụng căn nhà số 42 Tân Khai, phường 4, quận 11. Phần bà Muối sở hữu sử dụng căn nhà số 40 Tân Khai, phường 4, quận 11 với điều kiện bà Muối phải hoàn trả số tiền xây dựng nhà số 40 Tân Khai, phường 4, quận 11 là 453.607.000 đồng cho anh Trần Thuỷ Dinh và chị Lưu Hồng Hạnh. Việc ngăn đôi nhà và thanh toán tiền được thực hiện cùng một lúc ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

3- Án phí dân sự sơ thẩm 22.680.350 đồng bà Muối chịu, nộp tại Đội Thi hành án quận 11.

Ngày 24-09-1998, bà Muối kháng cáo yêu cầu anh Dinh cùng phải chịu chi phí xây tường ngăn và không đồng ý trả tiền xây dựng cho anh Dinh.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 171/DSPT ngày 10-04-1999, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

- Chấp nhận anh Trần Thuỷ Dinh rút lại yêu cầu tranh chấp sở hữu căn nhà số 40 Tân Khai, phường 4, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh;

Bác yêu cầu của anh Trần Thuỷ Dinh về việc đòi tiền xây cất căn nhà số 40 Tân Khai, phường 4, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh;

- Công nhận sở hữu căn nhà số 40 Tân Khai, phường 4, quận 11 là của bà Tăng Tô Muối.

- Bà Muối được quyền xây tường ngăn đôi căn nhà số 40 số 42 Tân Khai, phường 4, quận 11. Anh Dinh sở hữu phần nhà số 42, bà Muối sở hữu phần nhà số 40; chi phí xây tường ngăn đôi bà Muối chịu 1/2, anh Dinh chịu 1/2 .

- Án phí dân sự sơ thẩm anh Dinh và chị Hạnh phải chịu 16.590.000 đồng.

Anh Dinh và chị Hạnh khiếu nại bản án phúc thẩm trên.

Tại Kháng nghị số 48/KN-DS ngày 23-05-2000, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Toà án nhân dân tối cao xử huỷ Bản án phúc thẩm trên, giao hồ sơ vụ kiện về xử lại phúc thẩm theo hướng Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 152 ngày 27-06-2000, Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao đã quyết định:

- Ghi nhận việc anh Trần Thuỷ Dinh rút yêu cầu tranh chấp sở hữu căn nhà số 40 Tân Khai. Chấp nhận yêu cầu đòi tiền xây cất căn nhà số 40 Tân Khai của anh Trần Thuỷ Dinh và chị Lưu Hồng Hạnh.

- Công nhận bà Tăng Tô Muối là chủ sở hữu căn nhà số 40 Tân Khai.

- Bà Tăng Tô Muối phải trả anh Trần Thuỷ Dinh và chị Lưu Hồng Hạnh tiền xây dựng căn nhà số 40 Tân Khai là 453.607.000đồng. Kể từ ngày anh Dinh và chị Hạnh có đơn yêu cầu thi hành án, bà Muối phải chịu thêm tiền lãi nợ quá hạn theo mức quy định của Ngân hàng Nhà nước.

- Bà Muối được quyền xây tường ngăn theo trục tường chung giữa căn nhà số 40 Tân Khai và số 42 Tân Khai. Bức tường ngăn này thuộc sở hữu chung của chủ sở hữu căn nhà số 40 Tân Khai và chủ sở hữu căn nhà số 42 Tân Khai (anh Dinh và chị Hạnh) và mỗi bên phải chịu 1/2 chi phí xây ngăn. Việc xây ngăn được tiến hành sau khi bà Muối đã thanh toán xong tiền xây cất căn nhà số 40 Tân Khai cho anh Dinh và chị Hạnh. Anh Dinh và chị Hạnh không được ngăn cản bà Muối khi cần kết hợp với tường chung để làm cầu thang căn nhà số 40 Tân Khai.

- Bà Muối phải nộp án phí sơ thẩm 22.680.350 đồng. Hoàn các khoản tạm ứng án phí cho các đương sự.

Bà Muối khiếu nại Quyết định giám đốc thẩm trên.

Tại Quyết định kháng nghị số 43/KNDS ngày 18-06-2003, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xử huỷ Quyết định giám đốc thẩm trên, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh điều tra, xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung.

Tại Kết luận số 96/KL-VKSTC-V5 ngày 06-10-2003, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xử huỷ Bán án dân sự sơ thẩm số 64/DSST ngày 14-09-1998 của Toà án nhân dân quận 11, Bản án dân sự phúc thẩm số 171 /DSPT ngày 10-04-1999 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Quyết định giám đốc thẩm số 152 ngày 27-06-2000 của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao. Giao hồ sơ vụ án nói trên cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm.

XÉT THẤY:

Căn nhà số 40 Tân Khai, phường 4, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh do bà Tăng Tô Muối được mua hoá giá của Công ty quản lý và phát triển nhà quận 11 và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở ngày 01-02-1992. Căn nhà số 42 Tân Khai do anh Trần Thuỷ Dinh mua của ông Châu Trân, ngày 09-04-1993 anh Dinh đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu. Ngày 20-04-1993 bà Muối được cấp giấy phép xây dựng lại căn nhà số 40 Tân Khai theo thiết kế 1 tầng trệt, 1 lửng, 2 lầu. Ngày 27-04-1993, anh Dinh cũng được cấp giấy phép xây dựng lại căn nhà số 42 Tân Khai theo thiết kế tương tự căn nhà số 40 Tân Khai. Sau khi có Giấy phép xây dựng, anh Dinh đã phá dỡ 2 nhà nêu trên và xây dựng nhà mới; cấu trúc về số tầng thì giữ nguyên như Giấy phép, nhưng cách bố trí phòng và cầu thang có thay đổi, từ 2 cầu thang nay chỉ còn 1 cầu thang bên nhà, đất số 42 Tân Khai. Xây xong, bà Muối và vợ chồng anh Dinh, chị Hạnh sử dụng chung 2 căn nhà nêu trên. Ngày 16-06-1998 anh Dinh khởi kiện cho rằng căn nhà số 40 Tân Khai thuộc sở hữu của mình nhưng không đưa ra được chứng cứ gì xác thực để chứng minh. Do đó, tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm anh Dinh đã phải rút yêu cầu tranh chấp quyền sở hữu căn nhà số 40 Tân Khai và chỉ yêu cầu bà Muối trả cho anh tiền xây dựng lại căn nhà số 40 Tân Khai theo bảng chiết tính ngày 03-08-1998 của Công ty Kinh doanh nhà quận 11, thành phố Hồ Chí Minh là 453.607.000 đồng.

Bà Muối không thừa nhận lời khai của anh Dinh, bà Anh và khẳng định không chỉ nhà thuộc sở hữu của bà mà tiền xây dựng bà cũng đã đóng góp đủ. Khi xây dựng, do bà là người Hoa, không biết chữ, nên mọi giao dịch, tiền thợ xây nhà giao cho bà Anh đứng ra lo; sau đó thì giao cho anh Dinh và chồng bà Anh. Ông Huỳnh Ba (thầu xây dựng) khai: Năm 1993 ông được cha con anh Dinh kêu tới nhận lãnh thầu xây cất lại căn nhà số 40 số 42 Tân Khai, tiền công do anh Dinh trực tiếp trả, nguyên vật liệu anh Dinh đi mua. Anh Dinh khai anh trực tiếp lo vật liệu, thuê người thi công, mua vật tư xây dựng nhà. Lời khai của anh Dinh và ông Ba phù hợp với lời khai của bà Muối.

Về tiền xây dựng lại căn nhà số 40 Tân Khai: Bà Muối khai nguồn tiền xây dựng lại căn nhà số 40 Tân Khai là do bà dành dụm được, do bà Thuận (chị ruột) ở Mỹ và chị Uyên (con nuôi) ở Canada gửi về. Chị Uyên cũng có lời khai đã nhiều lần gửi tiền nhờ bạn bè và người thân về nước mang cho bà Muối tổng cộng là 40.000 USD để xây dựng lại căn nhà số 40 Tân Khai. Bà Muối khai đã 3 lần đưa tiền cho bà Anh tổng cộng là 20 lượng vàng và 28.000 USD, khi giao nhận không làm giấy tờ vì quan hệ giữa 2 người là chị em kết nghĩa, khi đưa có 2 nhân chứng là ông Ngũ Toàn và ông Đỗ Tam Tử biết. Ông Tử khai bà Muối có gửi ông giữ giùm 20 lượng vàng và 10.000 USD, khi bà Muối giao tiền cho bà Anh có yêu cầu ông đưa để bà Muối trả cho bà Anh. Hai nhân chứng đều khai bà Muối đã 3 lần giao tiền cho bà Anh vào buổi chiều, tuy nhiên đưa cụ thể bao nhiêu thì các ông không biết.

Anh Dinh và bà Anh đều thừa nhận bà Anh và bà Muối là chị em kết nghĩa rất thân tình với nhau, nhưng lại không thừa nhận bà Muối đưa tiền để xây dựng lại nhà. Tuy nhiên, sau khi được bà Anh uỷ quyền, ngày 30-11-1998 anh Dinh lại khai: năm 1993 do sự thoả thuận của má tôi (Lữ Ngọc Anh) và bà Tăng Tô Muối để xây dựng lại 2 căn nhà số 40 số 42 Tân Khai. Ngoài ra, bà Muối còn xuất trình 8 biên lai tiền phạt về chiếm lòng lề đường để đổ cát, vật liệu xây dựng lại 2 căn nhà, tổng là 1.876.000 đồng. Anh Dinh thừa nhận số tiền nộp phạt là của bà Muối. Sau khi xây xong, bà Muối cùng vợ chồng anh Dinh sử dụng chung. Do đó, cần buộc bà Anh, anh Dinh đưa ra những chứng cứ chứng minh là toàn bộ số tiền xây dựng là do mình bỏ ra và các chứng cứ bác bỏ chứng cứ của bà Muối; đồng thời cho bà Anh đối chất với bà Muối và các nhân chứng, yêu cầu bà Anh chứng minh nguồn tiền bà đưa vào xây dựng và yêu cầu bà Muối làm rõ thêm việc bà đưa tiền cho bà Anh, từ đó mới có cơ sở kết luận chính xác tiền xây dựng lại căn nhà số 40 Tân Khai do ai bỏ ra. Nếu phía nguyên đơn không đưa ra được chứng cứ gì chứng minh cho yêu cầu của mình và không bác bỏ được chứng cứ của bị đơn thì không thể chấp nhận được yêu cầu của nguyên đơn.

Về tiền xây ngăn giữa 2 nhà cần hoà giải giữa hai bên, nếu thoả thuận được thì xây tường ngăn chung, nếu không thoả thuận được thì mỗi bên tự xây dựng tường ngăn trên phía đất của mình; việc Quyết định giám đốc thẩm xác định xây tường ngăn chung trong khi không có thoả thuận của hai bên là không hợp lý.

Vì lẽ trên, căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,

QUYẾT ĐỊNH:

Huỷ Quyết định giám đốc thẩm số 152 ngày 27-06-2000 của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao, Bản án dân sự phúc thẩm số 171/DSPT ngày 10-04-1999 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số 64/DSST ngày 14-09-1998 của Toà án nhân dân quận 11 về vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà giữa nguyên đơn là anh Trần Thuỷ Dinh với bị đơn là bà Tăng Tô Muối. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh điều tra, xét xử lại từ sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.

Lý do huỷ Quyết định giám đốc thẩm của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao và Bản án phúc thẩm:

Toà án đã chưa có căn cứ chính xác để kết luận nguồn tiền xây dựng lại căn nhà số 40 Tân Khai do ai bỏ ra.

Toà án quyết định một bên có quyền xây tường ngăn chung là không hợp lý.

 
bí mật, thông tin cá nhân, bí mật đời tư, danh dự, nhân phẩm, người làm chứng, tâm lý học, phòng chống tội phạm, Luật sư Nông Thị Hồng Hà, Thạc sĩ, Luật sư Phạm Thanh Bình, Phan Kế Bính, , Vnexpress, công an nhân dân, vụ án, bị can, bị cáo, người chưa thành niên, Luật sư bào chữa, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ luật tố tụng hình sự, người tham gia tố tụng, người bị hại, điều tra, truy tố, xét xử, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật dân sự, khởi kiện, tranh chấp, thụ lý, hòa giải, lao động, hành chính, kinh tế, đất đai, ly hôn, tài sản, thừa kế, khu đô thị mới, căn hộ, ranh giới, cơ quan tiến hành tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, tâm lý học, phòng chống tội phạm, bí mật, thông tin cá nhân, bí mật đời tư, danh dự, nhân phẩm, người làm chứng, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, người đại diện hợp pháp, từ chối, các biện pháp ngăn chặn, bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, gia hạn thời hạn tạm giữ, tạm giam, hậu quả xấu, lấy lời khai, hỏi cung, thời gian, địa điểm, cán bộ chuyên trách, cán bộ trợ giúp, tư vấn về pháp lý, y tế, độ tuổi, tình trạng tâm lý, sức khỏe, xét xử lưu động, còng tay, phương tiện, cưỡng chế, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng do cố ý, tiêu cực, chống đối, gây mất trật tự tại phiên toà, đại diện của gia đình bị cáo, hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, phạt tù, án treo, trắng án, giám sát, tái hòa nhập cộng đồng, người làm chứng, quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân, thu thập chứng cứ, lấy lời khai, kiểm tra dấu vết, chụp ảnh thương tích, ghi âm, ghi hình, xét xử kín, xâm phạm tình dục trẻ em, mua bán trẻ em, tham khảo, trộm cắp, cướp, giết người, công vụ, tham ô, sở hữu trí tuệ, quyền tác giả, kinh doanh, thương mại, hợp đồng, doanh nghiệp, bảo hiểm, cố ý gây thương tích, án oan, vu khống, làm giả, làm nhục, khiếu nại, tố cáo, bắt cóc, cưỡng đoạt, chiếm đoạt, lừa đảo, hàng giả, đầu cơ, trốn thuế, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, ma túy, giao thông, đua xe,
Ý kiến bạn đọc (0)
Ý kiến của bạn
Họ và tên :
Email của bạn :  *
Mã bảo vệ :    (*)
Tiêu đề :
Nội dung :  *
          
Các tin khác: